THẦN ĐÔ HUYỀN NHIỆM
BA VUA THỜ LẠY CHÚA HÀI ĐỒNG Ba Vua, những người tìm đến thờ lạy Hài Nhi Thiên Chúa, là người Ba Tư, Ả Rập và Sabba (Tv 71:10), ba quốc gia phía đông nước Palestine. Việc ba vua tới thờ lạy Chúa Giáng Sinh đã được vua David đặc biệt tiên báo, và trước đó do Balaam, ông này được Balaac, vua nước Moab, mướn để nguyền rủa dân Do Thái, nhưng Balaam đã chúc lành thay vì nguyền rủa (Ds 24:17). Trong lời chúc lành này, Balaam nói ông sẽ gặp Đức Kitô Vua, mặc dầu không phải trong đời ông. Balaam không nhìn thấy Chúa bằng chính mắt ông, nhưng qua mắt ba vua, những người là miêu duệ ông nhiều thế hệ sau. Balaam cũng nói một ngôi sao sẽ mọc lên cho nhà Jacob, ngôi sao đó là Đức Kitô, Đấng lên thống trị nhà Jacob đến muôn muôn đời (Lc. 1:32). Ngay khi từ Bethlehem đưa tin cho ba vua, các thiên thần cũng tạo ra trên không trung một ngôi sao sáng chói để dẫn đường những người thánh thiện này tới hang đá, nơi Chúa Hài Đồng chờ đợi các ông. Khi rời khỏi cung điện, mỗi vị đều nhìn thấy ngôi sao mới (Mt. 2:2) mặc dầu mỗi người từ địa phương khác nhau. Ngôi sao này được đặt trên độ cao thích hợp để cả ba vị có thể nhìn thấy cùng một lúc. Được ngôi sao lạ dẫn đường, các ngài đã sớm gặp nhau. Khi ba vua gặp nhau, ngôi sao lập tức xuống sát gần, tỏa ánh sáng rực rỡ làm cho các ngài hoan hỉ. Ba vua trao đổi về mạc khải riêng mỗi người nhận được và thấy các ngài có chung một mục đích. Các ngài được thêm lòng tận hiến, khao khát sốt sắng thờ lạy Thiên Chúa mới giáng sinh, dâng lời chúc tụng ca ngợi các kỳ công và mầu nhiệm của Đấng Toàn Năng. Chúa Hài Đồng trên tay Đức Hiền Mẫu thiên đàng đón nhận ba vua sốt mến và tận hiến. Giữa những khiêm tốn khó nghèo nơi hang đá, trong vẻ khiêm nhu nhưng diễm kiều khôn sánh, Mẹ Maria cùng lúc đó biểu lộ vẻ uy nghi cao cả, ánh sáng thiên đàng rực sáng trên mặt Mẹ. Ánh sáng nơi Chúa Hài Đồng còn rực rỡ hơn nữa, tỏa ra khắp hang đá ánh sáng huy hoàng chói chang làm cho hang đá trở nên giống như thiên cung. Ba vua Phương Đông đi vào hang đá, thoạt thấy Chúa Hài Đồng và Đức Hiền Mẫu, lập tức họ bị sự ngỡ ngàng lạ lùng tràn ngập. Ba vua quì phục trên đất, tôn kính thờ lạy Chúa Hài Đồng, nhận Ngài là Thiên Chúa thực và người thực, là Đấng Cứu Độ nhân loại. Quyền năng Thiên Chúa tác động linh hồn ba vua khi các ông nhìn thấy Chúa. Ba vua thấy muôn vàn thiên thần phục vụ Vua trên hết các vua, Chúa trên hết các chúa, với lòng tôn kính như những tôi tớ và thừa tác viên. Chỗi dậy, ba vua chúc tụng Mẹ Maria, Đức Hiền Mẫu của Con Thiên Chúa Cha hằng hữu, các ông tới quì trước mặt Mẹ Maria để kính chào Mẹ. Ba vua tìm hôn tay Mẹ theo tập quán nước các ông đối với các hoàng hậu hoặc nữ vương. Đức Hiền Mẫu Maria đã rút tay lại và, để thay vào đó, Người đưa tay Chúa Cứu Thế ra và nói: “Thần trí tôi reo mừng trong Chúa, linh hồn tôi chúc tụng và tôn vinh Ngài; vì giữa muôn dân Chúa đã gọi và chọn quí vị cho ngưỡng vọng cùng nhìn thấy điều mà nhiều vua chúa và các tiên tri đã khao khát nhưng không được thấy, đó là Ngôi Lời Thiên Chúa nhập thể (Lc. 10:24). Chúng ta hãy tôn vinh chúc tụng Danh Ngài vì các bí tích và mầu nhiệm được thi hành giữa dân Ngài; chúng ta hãy hôn đất được thánh hoá do sự hiện diện đích thực của Ngài.” Theo những lời này của Đức Maria rất thánh, ba vua phủ phục thờ lạy Chúa Hài Đồng Giêsu, cảm tạ hồng ân vĩ đại được sống trong thời gian khi Mặt Trời Công Chính mọc lên để soi sáng bóng đêm (Malaki 4:2). Kế đó ba vua nói với thánh Giuse, chúc mừng ngài, ngợi khen hồng phúc cao cả ngài được chọn làm phu quân Mẹ Thiên Chúa. Ba vua cũng bầy tỏ sự ngạc nhiên cảm động vì sự nghèo nàn tột cùng, vẻ nghèo nàn đó che giấu những mầu nhiệm vĩ đại nhất trên trời dưới đất. Sau ba tiếng đồng hồ triều kiến thờ lạy chúc tụng, phái đoàn triều kiến xin phép Đức Hiền Mẫu Maria để vào thành tìm nơi nghỉ. Có một số người tháp tùng ba vua, nhưng chỉ có ba vua được ơn soi sáng và ân sủng từ cuộc thăm viếng này. Những người khác chỉ nhìn thấy những gì bên ngoài, chỉ thấy hoàn cảnh thiếu thốn, bị bỏ rơi của Đức Hiền Mẫu và phu quân. Mặc dầu bỡ ngỡ vì biến cố lạ lùng, những người đó không thấy gì về mầu nhiệm này. Ba vua chào tạm biệt ra đi, trong khi Mẹ Maria và thánh Giuse, lại được ở một mình với Chúa Hài Đồng, đã vinh danh Đấng Chí Tôn bằng những lời chúc tụng mới, vì thánh danh Chúa bắt đầu được các Dân Ngoại nhận biết thờ lạy (Tv 85:9). Từ hang đá Giáng Sinh, ba vua tới một chỗ tạm trú trong thành Bethlehem. Các ngài dành phần lớn đêm đó nói về những điều đã chứng kiến, những cảm tưởng, lòng yêu mến trào lên trong mỗi vị, những điều riêng từng vị nhận thấy nơi Chúa Hài Đồng và Đức Hiền Mẫu. Trong buổi chuyện vãn này ba vua càng lúc càng được bốc cháy lửa yêu mến linh thiêng, ngỡ ngàng vì sự uy nghiêm cùng vẻ đẹp thánh thiêng của Chúa Hài Đồng Giêsu. Các ngài ngạc nhiên vì sự khôn ngoan, khiêm tốn, dè dặt của Đức Hiền Mẫu, thán phục sự thánh thiện của thánh phu quân Giuse, ngạc nhiên vì cảnh nghèo nàn của Thánh Gia. Các ông ngỡ ngàng vì vẻ khiêm nhượng của nơi Chúa trời đất đã muốn được sinh ra. Ba vị vua nhiệt thành yêu mến cảm thấy ngọn lửa thánh thiêng bốc cháy trong trái tim. Không kềm chế được, các ông nói lên những lời cảm thán của tình yêu ngọt ngào và lòng tôn kính lớn lao: “Chúng tôi cảm thấy điều gì thế này? Phải chăng chính ảnh hưởng của Vị Đại Vương này làm cho chúng tôi có được những ước vọng và lòng yêu mến vĩ đại như thế này sao? Sau biến cố này, chúng ta sẽ nói chuyện với người ta thế nào? Chúng ta có thể làm gì, chúng ta đã được chỉ dạy những mầu nhiệm mới, huyền nhiệm và cao siêu như thế này? Ôi sự cao cả vĩ đại của Đấng Toàn Năng không tỏ lộ cho nhân loại mà được giấu kín dưới sự khó nghèo tột cùng như thế! Ôi sự khiêm nhượng loài người không thể nào hình dung! Ước chi cả nhân loại được lôi cuốn đến với sự khiêm tốn, ngõ hầu loài người không bị gạt ra khỏi niềm hạnh phúc vô biên!” Trong những đàm thoại siêu nhiên này, các vị đạo sĩ nhớ tới cảnh cơ hàn thiếu thốn cùng cực của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse nơi hang đá đã quyết định lập tức dâng một ít lễ vật để tỏ lòng yêu mến và để thoả lòng các ông muốn phụng sự Thánh Gia. Vì không làm được điều gì khác cho Chúa Hài Đồng, Mẹ Maria và thánh Giuse, ba vua cho gia nhân dâng những lễ vật các ông đã dành sẵn và những thứ khác các ông tìm được. Mẹ Maria và thánh Giuse nhận những lễ vật này với lòng khiêm tốn biết ơn. Mẹ Maria và thánh Giuse không phải chỉ đáp lại bằng những lời cám ơn suông, mà bằng nhiều hồng ân có hiệu lực mãnh liệt an ủi tinh thần ba vua. Các lễ vật này giúp Đức Nữ Vương cao cả của chúng ta chuẩn bị bữa tiệc lớn đãi những người khách bình dân nghèo khó của Người. Những người thiếu thốn đó thường tới thăm Mẹ Maria, được bố thí và được lôi kéo mạnh hơn nữa bằng những lời ngọt ngào của Mẹ. Ba Vua chìm vào giấc ngủ với lòng hoan lạc khôn sánh; và trong giấc ngủ, các thiên thần nói với các ông về hành trình hồi hương (Mt 1: 9-12). Bình minh hôm sau ba vua trở lại hang đá Giáng Sinh dâng lên Vua thiên quốc những lễ vật đặc biệt. Khi tới nơi, các ngài lại phủ phục trong niềm khiêm tốn thẳm sâu, mở các hộp quí châu ra, dâng lên Chúa vàng, nhũ hương và mộc dược (Mt. 2:21). Ba vua xin Mẹ Maria chỉ dạy về nhiều mầu nhiệm, các việc thực hành đức tin, về những vấn đề liên quan đến bổn phận và cai quản đất nước. Các ngài ước nguyện trở về mà được chỉ dẫn tường tận hầu có thể tiến tới sự thánh thiện trọn lành trong cuộc sống hàng ngày. Mẹ Maria vui mừng khi nghe lời ba vua. Mẹ âm thầm trao đổi với Chúa Hài Đồng về tất cả mọi điều ba vua hỏi, ngõ hầu trả lời, và chỉ dạy cách thích đáng cho những người con này của Luật Mới. Với tư cách Giáo Sư và là công cụ của sự khôn ngoan Thiên Chúa, Mẹ Maria trả lời tất cả các câu hỏi, cho ba vua những giáo huấn cao quí về thánh hoá đến độ ba vua khó lòng rời khỏi sự dịu dàng và sự lôi cuốn từ những lời Mẹ nói. Những lời Mẹ Maria ảnh hưởng đến ba vua hết sức sâu xa vì do Chúa Thánh Thần hướng dẫn và tràn đầy khôn ngoan. Một thiên thần Chúa hiện ra nhắc các ông nhớ sự cần thiết của thánh ý Chúa là các ông phải trở lại quê hương. Đức Hiền Mẫu thiên đàng nhận các lễ vật của ba vua và nhân danh các ông dâng các lễ vật đó lên Chúa Hài Đồng Giêsu. Chúa cho thấy những dấu chỉ Chúa hài lòng nhận các lễ vật đó. Ba vua nhận thức được các ân sủng vô cùng dồi dào mà Chúa trả lại gấp trăm (Mt. 19:29). Theo tập quán địa phương của mình, các ông cũng dâng lên Mẹ Maria một vài viên ngọc giá trị rất lớn; nhưng vì những lễ vật này không có ý nghĩa huyền nhiệm nào và không chỉ về Chúa Giêsu nên Mẹ hoàn lại các lễ vật đó, chỉ giữ lại các lễ vật là vàng, nhũ hương và mộc dược. Để ba vua ra đi được hoan hỉ hơn nữa, Mẹ Maria cho ba Vua một số vải khăn trong đó Mẹ đã bọc Chúa Hài Đồng, vì Mẹ không có những bảo vật hữu hình nào quí giá hơn. Ba vua nhận các thánh kỷ vật này với hết lòng tôn kính quí trọng; các ông cho bọc các thánh kỷ này trong vàng và ngọc thạch để giữ mãi mãi về sau. Để làm bằng chứng giá trị của mình, các thánh kỷ vật này toả ra mùi hương lạ lùng. Tuy nhiên, chỉ những người tin tưởng việc Chúa đến thế gian mới được ngửi hương thơm đó. Ở trong nước của mình, ba vua đã làm nhiều phép lạ nhờ những thánh kỷ này. Ba vị thánh vương cũng hiến dâng của cải khác lên Đức Hiền Mẫu, hoặc, nếu Mẹ không muốn nhận những thứ đó mà muốn ở lại nơi này hơn, nơi Con cực thánh của Người đã sinh ra, các ông sẽ dựng cho Người một ngôi nhà tiện nghi hơn. Mẹ Maria cám ơn ba vua vì những hiến dâng, nhưng không nhận các thứ đó. Khi từ biệt Đức Hiền Mẫu, ba vua xin Mẹ đừng quên họ; Mẹ hứa và hoàn thành điều đó. Các ông cũng xin thánh Giuse như thế. Với chúc lành của Chúa Giêsu, Mẹ Maria và thánh Giuse, các ngài lên đường mà dường như đã để trái tim lưu lại nơi hang đá. Vì được thiên thần cho biết trong đêm truớc, các ông trở về theo lộ trình khác để tránh gặp Herode ở Jerusalem. Khi đoàn lữ hành ra khỏi Bethlehem, cũng ngôi sao lạ đã dẫn đường tới Bethlehem lại xuất hiện dẫn các ông trở về quê hương theo lộ trình khác, trở lại nơi gặp nhau lần đầu tiên, từ đó mỗi người đi đường về nhà mình (Mt 1:18). LỜI MẸ MARIA Con của Mẹ, các lễ vật ba vua dâng lên Con cực thánh Mẹ đều quí giá, nhưng lòng yêu mến khi dâng các lễ vật và sự huyền nhiệm tiềm ẩn sau các lễ vật đó còn giá trị hơn. Vì những lý do này các lễ vật đó đáng được Đấng Tối Cao chấp nhận nhất. Mẹ ao ước con cũng dâng những lễ vật tương tự, cảm tạ ơn Chúa vì đã làm cho con nghèo khó theo điều kiện và lời khấn. Con rất yêu quí của Mẹ, Mẹ hứa chắc với con rằng không có lễ vật nào đáng được Đấng Tối Cao chấp nhận hơn sự nghèo khó tự nguyện. Trong thời đại chúng ta, rất ít người sử dụng cách khôn ngoan các của cải tạm bợ của họ, dâng những của cải đó lên Thiên Chúa với lòng đại lượng và yêu mến như ba vua thánh này. Ngày nay, bản chất nhân loại đã trở nên ác độc, tham lam quá độ, chai đá trước các thiếu thốn cùng cực của người khó nghèo. Chúa Ngôi Ba và các thiên thần đau lòng chứng kiến sự cao quí của các linh hồn bị làm cho mất phẩm giá vì họ phục vụ lòng tham lam vàng bạc của cải và mọi quyền lực ác độc của nó (Gv 10:20). Những người giầu có đã tước đoạt của người nghèo, chiếm lấy mọi thứ ở đời này cho riêng mình. Họ không kể gì đến những người nghèo khó là anh em của họ, được sinh ra cùng một bản chất và xương thịt. Họ cũng từ chối ngay cả với Thiên Chúa, Đấng tạo dựng, gìn giữ mọi sự, và có thể cho hoặc lấy lại tùy ý. Điều đáng than khóc nhất là trong khi những người giàu có có thể mua được cuộc sống đời đời bằng tiền bạc, họ đã lạm dụng của cải vật chất, chọn lấy cho mình án phạt đời đời chẳng khác gì những thụ tạo vô linh tính điên khùng (Lc. 14:9). Điều ác độc này phổ thông nơi con cái Adong, vì thế sự khó nghèo tự nguyện là y dược tuyệt hảo và an toàn. Nhờ đức thanh bần làm cho người ta sẵn sàng hoan hỉ từ bỏ sản nghiệp vì người nghèo khó, đó là của lễ lớn lao được dâng hiến lên Thiên Chúa. Con cũng có thể hiến dâng như thế đối với những thứ cần thiết cho việc nuôi sống con, chia một phần cho người nghèo khó, nếu có thể con giúp họ bằng sức lao động và mồ hôi. Tuy nhiên của lễ con hiến dâng không bao giờ gián đoạn phải là tình yêu: tình yêu là vàng; cầu nguyện liên tục là nhũ hương; kiên trì chấp nhận những lao khổ và thực sự hãm mình là mộc dược. Con hãy dâng lên Chúa mọi điều con làm với tình yêu nồng nàn sốt sắng, không chút chểnh mảng hoặc sợ sệt; vì những việc làm chểnh mảng, những việc làm không được ủ men tình yêu không phải là của lễ đáng chấp nhận trước mắt Đấng Tối Cao. Để làm cho các việc này trở thành của lễ hiến dâng không ngừng, điều cần thiết là đức tin và ơn soi sáng của Chúa luôn luôn bốc cháy trong trái tim con, có trước mắt con mục tiêu vĩ đại của lời chúc tụng tôn vinh và tác dụng của tình yêu mà nhờ đó con được cột chặt vào Đấng Tối Cao. Con cần phải liên tục thực hành việc yêu mến ngọt ngào này. Điều này rất thích hợp cho các người yêu dấu của Đấng Tối Cao; vì tên những người đó ngụ ý việc liên tục trả nợ tình yêu và lòng thương mến của Ngài. |